Đức Tôn Sư MINH ĐĂNG QUANG, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý
Hườn, sinh ra đời lúc 10 giờ tối ngày Tân Tỵ 26 tháng 09 năm Quý Hợi 1923 tại
làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Tỉnh Vĩnh Long miền Nam – Việt Nam.
--------------------------------------------------------------------------
I. THÂN THẾ THỜI NIÊN THIẾU
Đức Tôn Sư MINH
ĐĂNG QUANG, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh ra đời lúc 10 giờ tối
ngày Tân Tỵ 26 tháng 09 năm Quý Hợi 1923
tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Tỉnh Vĩnh Long miền Nam
– Việt Nam.
Thân phụ Ngài là
cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Nhàn. Từ bao đời gia đình
song thân vốn có nền nếp ăn ở theo đạo thánh hiền, tu nhân tích đức, được người
đương thời khen ngợi là gia đình hiền lương nhân nghĩa. Trong gia đình ông bà cụ
có tất cả năm người con, Ngài là con út. Trước Ngài có bốn anh chị, cụ bà đều
thọ thai và sinh nở bình thường, nhưng đến Ngài thì cụ bà mang thai đến 12
tháng mới khai hoa. Mười tháng sau, ngày
25 tháng 07 năm Giáp Tý 1924, cụ bà bịnh nặng và qua đời , hưởng dương 32 tuổi
( sau này Ngài vắng bóng cũng năm 32 tuổi ). Từ đó về sau Ngài được thân phụ và
bà kế mẫu Hà Thị Song nuôi dưỡng đến ngày trưởng thành. Cụ ông mất ngày mùng 5
tháng giêng năm Mậu Thân 1968, thọ 75 tuổi.
Thuở
nhỏ tuy sinh trưởng và lớn lên ở một làng vùng quê nhưng Ngài có trí thông minh
khác hơn những trẻ cùng thời. Phong cách đi, đứng, ăn, mặc, nói làm. . . đều thể
hiện đức tính trang nghiêm điềm đạm hơn chúng bạn. Chính nhờ vậy mà ngay từ lúc
còn niên thiếu Ngài được thân phụ rất yêu quý và mọi người chung quanh đều một
lòng thương mến. Đến tuổi cắp sách vào trường, Ngài luôn chăm chỉ học hành, bài
vở thầy dạy đến đâu Ngài thông suốt đến đó và mỗi năm mỗi tiến phát.
Ngoài giờ học tập ở trường, Ngài giúp đỡ
việc nhà, hầu hạ cha mẹ. Và hơn nữa, Ngài rất siêng năng ưa thích nghiên cứu
tìm hiểu sách vở ghi chép sử liệu các tôn giáo, nhất là tam giáo: Thích – Đạo –
Nho. . . Ngài tìm tòi học hỏi rất tường tận. Nhờ vậy mỗi khi chuyện vãn với những
người thiện duyên quen lạ gặp gỡ, Ngài đều luận giải mọi vấn đề một cách tinh
tường và được người người kính phục.
Vốn được hấp thụ nề nếp đạo đức nho phong
nên Ngài thường tới lui các nhà đạo đức trưởng thượng đương thời để tham vấn đạo
lý. Trong thời gian này, Ngài có tạo phía sau nhà một cái thất nhỏ để hằng ngày
tiện bề tu tập tham thiền. Ngài thường trầm tư mặc tưởng, có khi cả đôi ba giờ
đồng hồ. Có những buổi chiều Ngài thường hướng mắt về chân trời bao la với vẻ mặt
đăm chiêu như đang suy nghĩ điều gì mà chưa giải quyết được.
II.
CON ĐƯỜNG XUẤT GIA, SỰ THỬ THÁCH VÀ ĐẠO QUẢ
Với tinh thần hướng thượng sẵn có, nhiều lần
Ngài xin phép với thân phụ được xuất gia tầm chân lý. Thân phụ vì quá thương
con nên không đành để Ngài ra đi một mình một bóng đến xứ lạ quê người hoặc nơi
núi rừng cô tịch, hang động hiểm nguy khi tuổi đời còn niên thiếu, nên cụ ông
nhất định cản ngăn. Thấy việc trình xin xuất gia không kết quả vì tình phụ tử
quá thiêng liêng, nhưng cũng không vì sự luyến ái đó mà Ngài bỏ dở chí đăng
sơn. Qua nhiều đêm suy nghĩ Ngài tự nhủ không thể tầm thường như bao người
trong trần tục để kiếp phù sinh cứ mãi lăn xoay trong vòng sanh, già, bịnh, chết.
. . Cuối cùng Ngài quyết tâm dõng mãnh cất bước ra đi, cắt đứt tình thân
Và rồi duyên định cũng an bài. Hơn một năm
sau Kim Huê giả từ trần mộng. Điều này quả thực đúng với ý nghĩa bi mầu trong
cõi hạ vô biên:
Gẫm trong trời đất vô cùng,
Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài.
Hay là thánh ý Như Lai,
Muốn
cho ôn lại trọn bài đau thương?
Đau thương là tính vô thường!
Ngay
từ buổi đầu gặp được một vị Thầy Việt lai Miên nổi tiếng đạo pháp cao siêu,
Ngài liền cầu xin thọ giáo. Trải qua những cuộc trắc nghiệm cam go, rốt cuộc vị
Thầy hoan hỷ tỏ lời khen ngợi và giao hết gia sản đạo nghiệp cho người đệ tử
trông nom. Được bốn năm ở Campuchia, Ngài vừa làm xong bổn phận, vừa nghiên cứu
Kinh Tạng và đường lối Y- Bát chơn truyền của Phật Tăng xưa. Tuy nhiên những điều
Ngài đã thọ học nơi Thầy và những gì vị Thầy trao lại không thỏa mãn tâm nguyện
của mình nên Ngài đã xin phép Thầy để trở về Việt Nam.
Trên đường về lại quê hương, Ngài gặp phải
một thử thách lớn trong đời. Một thử thách mà khắp thế nhân người người đều phải
mang nặng – đó là hiếu nghĩa song đường và nghiệp duyên trần thế:
Vô thường là tính đoạn
trường xưa nay.
Bài học đau thương, bài học vô thường, bài học
đoạn trường, quả là những bài học vi diệu đã kiến tạo cho cõi phiền não thành cảnh
giới an vui, đã giúp duyên cho lòng người Bồ Tát tròn xong hạnh nguyện hôm nào
còn dang dở.
Lần này Ngài dốc chí ôm bổn nguyện ra đi,
đi một phương trời vô định, đi không bao giờ trở lại. Đầu tiên Ngài đi đến Hà
Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ tìm sang các nước học đạo truyền
giáo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trể tàu. Ngài ở lại ra đầu gành bãi biển Mũi
Nai ngồi tham thiền bảy ngày bảy đêm quán xét nhơn duyên. Trước cảnh thiên
nhiên trời đất bao la, những chiếc thuyền nhấp nhô, bọt nước tụ tán vào một buổi
chiều Ngài ngộ lý vô thường, vô ngã, cảnh khổ trầm luân, đầy vơi, có không, còn
mất, sống chết, khổ vui của cuộc đời. Chính nơi đây Ngài tỏ sáng lý pháp “ Thuyền
Bát Nhã” ngược dòng đời cứu độ chúng sanh. Năm đó Đức Ngài tròn 22 tuổi:
Mãn khai vô thượng
liên đài,
Trang nghiêm thị hiện Như
Lai tọa thiền.
Sau khi chứng ngộ lý pháp nhiệm màu, với
lòng hoan hỷ vô biên, Ngài trở lại gia đình để thông báo cho cụ ông Nguyễn Tồn
Hiếu và mọi người biết, rồi lên Thất Sơn tiếp tục tu tập. Ngài dấn thân vào
vùng núi Thất Sơn, nơi có nhiều núi non huyền bí , hang động sâu thẩm, có những
bậc ẩn tu ít người thấy gặp. Ngài đến đây với tất cả lòng thành, quyết chí tu
hành, hiến dâng cuộc đời cho Phật Pháp với mục đích thành tựu Phật quả. Giữa chốn
núi cao chớn chở, cây lá phủ giăng bốn bề tịch lặng, chỉ nghe tiếng chim kêu vượn
hú, làm bạn với cỏ cây. Đêm thì tham thiền tĩnh tọa, buổi sáng thì mang bình
bát đi khất thực hóa duyên trong thôn xóm theo hạnh Phật Tăng xưa. Giờ ngọ thọ
trai xong, Ngài trở về tìm chỗ tịch lặng để đi kinh hành và giữ mình thanh tịnh,
trau dồi đạo quả. Năm 1946, do nạn chiến tranh tàn phá núi rừng, làm cho người
tu không chỗ ở, nhân duyên Ngài gặp một vị hiền Sĩ thỉnh Ngài về làng Phú Mỹ, tỉnh
Mỹ Tho để tu tập và truyền bá chánh Pháp. Ngài tự nghĩ: Đạo cốt tiếp vật lợi
sanh, ở một mình chẳng phải như Tổ Qui Sơn đã nói, nên Ngài bằng lòng theo vị
Hiền Sĩ này về Phú Mỹ khởi đầu cho công cuộc truyền bá Giáo Pháp Khất Sĩ.
Lần này Ngài dốc chí ôm bổn nguyện ra
đi, đi một phương trời vô định, đi không bao giờ trở lại. Đầu tiên Ngài đi đến
Hà Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ tìm sang các nước học đạo truyền
giáo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trể tàu. Ngài ở lại ra đầu gành bãi biển Mũi
Nai ngồi tham thiền bảy ngày bảy đêm quán xét nhơn duyên. Trước cảnh thiên
nhiên trời đất bao la, những chiếc thuyền nhấp nhô, bọt nước tụ tán vào một buổi
chiều Ngài ngộ lý vô thường, vô ngã, cảnh khổ trầm luân, đầy vơi, có không, còn
mất, sống chết, khổ vui của cuộc đời. Chính nơi đây Ngài tỏ sáng lý pháp “ Thuyền
Bát Nhã” ngược dòng đời cứu độ chúng sanh. Năm đó Đức Ngài tròn 22 tuổi:
Mãn khai vô thượng liên đài,
Trang
nghiêm thị hiện Như Lai tọa thiền.
Sau khi chứng ngộ lý pháp nhiệm màu, với
lòng hoan hỷ vô biên, Ngài trở lại gia đình để thông báo cho cụ ông Nguyễn Tồn
Hiếu và mọi người biết, rồi lên Thất Sơn tiếp tục tu tập. Ngài dấn thân vào
vùng núi Thất Sơn, nơi có nhiều núi non huyền bí , hang động sâu thẩm, có những
bậc ẩn tu ít người thấy gặp. Ngài đến đây với tất cả lòng thành, quyết chí tu
hành, hiến dâng cuộc đời cho Phật Pháp với mục đích thành tựu Phật quả. Giữa chốn
núi cao chớn chở, cây lá phủ giăng bốn bề tịch lặng, chỉ nghe tiếng chim kêu vượn
hú, làm bạn với cỏ cây. Đêm thì tham thiền tĩnh tọa, buổi sáng thì mang bình
bát đi khất thực hóa duyên trong thôn xóm theo hạnh Phật Tăng xưa. Giờ ngọ thọ
trai xong, Ngài trở về tìm chỗ tịch lặng để đi kinh hành và giữ mình thanh tịnh,
trau dồi đạo quả. Năm 1946, do nạn chiến tranh tàn phá núi rừng, làm cho người
tu không chỗ ở, nhân duyên Ngài gặp một vị hiền Sĩ thỉnh Ngài về làng Phú Mỹ, tỉnh
Mỹ Tho để tu tập và truyền bá chánh Pháp. Ngài tự nghĩ: Đạo cốt tiếp vật lợi
sanh, ở một mình chẳng phải như Tổ Qui Sơn đã nói, nên Ngài bằng lòng theo vị
Hiền Sĩ này về Phú Mỹ khởi đầu cho công cuộc truyền bá Giáo Pháp Khất Sĩ.
III.
THUYẾT PHÁP VÀ TRUYỀN ĐẠO
Để đánh dấu bước đường hoằng dương Phật
Pháp, thời pháp đầu tiên được Ngài khai đàn giảng là “ Thuyền Bát Nhã” vào ngày
rằm tháng tư tại Linh Bửu Tự, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Từ đó người dân hiền cảm
mến hình ảnh một thầy tu, một nhà sư thân đắp mảnh y vàng, tay ôm bình bát đất,
đi khất thực vào mỗi buổi sáng, không nhà cửa, không gia đình quyến thuộc,
không cất giữ chứa chấp món chi, không ở một nơi nào nhất định, không tiền bạc
v.v… Ngài phát nguyện “ Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp”, noi gương Phật Tăng
xưa sống đời phạm hạnh giải thoát. Ngài đã nhiếp độ đầy đủ cả hai chúng Nam Nữ
cư sĩ và hai chúng xuất gia Tăng Ni Khất Sĩ.
Cũng tại đấy Ngài soạn thảo nghi thức tụng
niệm lễ cúng, chương trình tu học, hành đạo cơ bản cho cư sĩ và Tăng Ni. Ngài
quan tâm giáo dưỡng, xây dựng cơ bản hai Tăng Ni Đoàn, tốt về Đạo Hạnh, vững về
kiến thức Chánh Pháp Phật Đà. Đầu năm 1948, nhân duyên hội đủ Đức Tổ Sư rời Phú
Mỹ, khởi phát chuyến du hành đầu tiên do Ngài hướng dẫn có hơn 20 Tăng Ni trực
chỉ vùng Sài Gòn, Gia Định – Chợ Lớn. Từ đó, gót chân hành đạo của Đức Tôn Sư
MINH ĐĂNG QUANG, vị sư trưởng của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam bước rộng lần ra từ
phạm vi làng này sang làng khác, từ tỉnh này sang tỉnh khác.
Trong những buổi thuyết pháp, Ngài luôn
kêu gọi tăng đồ trở về với giới luật “ NÊN TẬP SỐNG CHUNG TU HỌC”. Ngài kêu gọi
nhân loại hãy thương yêu nhau “ không tự lấy để trừ tham, không tự làm để tránh
ác”. Và Ngài cũng khuyến khích mọi người hãy cùng chung xây dựng một cõi đời đạo
đức, một xứ thiên đường, một cuộc sống an vui hạnh phúc cho nhân loại ngay tại
trần gian này bằng cách:
Mỗi người phải biết chữ
Mỗi người phải thuộc giới
Mỗi người phải tránh ác
Mỗi người phải ( học đạo ) làm
thiện.
Những thời pháp của Ngài còn ghi lại trong
bộ chơn lý ( gồm sáu mươi chín tiểu luận ). Ngài đã khéo léo dung hợp tư tưởng
giáo lý của hai tông phái Phật giáo, đưa ra con đường trung đạo Chánh Đẳng
Chánh Giác. . . giúp cho mọi tầng lớp trong xã hội nhận chân giá trị của Đạo Phật.
Ngài chủ trương và thường khuyến hóa chư đệ
tử với quan niệm “ Ta là tất cả, tất cả là ta, ta sống cho tất cả thì tất cả sống
cho ta, tiếng ta đây là tất cả, đó tức là chơn lý vũ trụ”. Người thực hành đúng
chơn lý gọi là Khất sĩ. Khất ấy là xin. Sĩ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học
đây rồi lại dạy. Xin phẩm thực để nuôi thân giả tạm, cho sự thiện lành phước đức
để bảo giữ sự sống dài lâu. Học bằng cách lượm lặt phương pháp khắp nơi, rút
nhiều kinh nghiệm. Dạy ta đến kết quả thật hành đặt điểm chỉ lại cho người. Cái
xin , cái học, cái dạy, cái cho, các pháp nương sanh, mở ra con đường sáng lạn
cho tất cả về sau tiến bước. Con đường ấy kêu là Đạo. Đạo của sống là xin nhau
sống chung. Đạo của biết là học chung, Đạo của Linh là tu chung. Chư Tăng, Ni
xuất gia theo Ngài học đạo thời bấy giờ có trên trăm vị, còn Phật tử theo quy y
thọ giới tại gia cũng cả hơn vạn người. Tịnh xá được thành lập hơn 20 ngôi tại
các tỉnh miền Đông và đồng bằng Sông Cửu Long. Ngài hành đạo thuyết pháp độ
sanh được khoảng 10 năm thì thọ nạn và vắng bóng.
IV.
THỜI KỲ THỌ NẠN VÀ VẮNG BÓNG
Chiều ngày 30 tháng giêng năm Giáp Ngọ (
1954 ) khi ánh mặt trời vừa lắng dịu, tại Tịnh Xá Ngọc Quang Sa Đéc, Đức Ngài
chậm rãi qua lại bên tàng cây bã đậu với
dáng vẻ suy tư . . . cho đến khi mặt trời vừa lặn. Ngài gọi Chư Tăng đệ tử lấy
đệm trãi dưới gốc cây Bồ Đề, ân cần dạy bảo về sự tu học và sự mở mang mối đạo.
Đức Ngài cũng cho biết thêm tương lai Đạo phật tại Việt Nam và các nước. Ngài từ
giã chư đệ tử để đi tu tịnh tại núi “ Lửa” một thời gian. Chư Tăng đệ tử xin
theo Ngài không mà còn dặn rằng: “ Các con hãy ở lại mở mang mối đạo, giáo hóa
chúng sanh đền ơn Chư Phật, ấy là các con theo Thầy và làm vui lòng thầy nơi xa
vắng, rồi một ngày kia Thầy sẽ trở về”.
Sáng ngày hôm sau mùng 1 tháng 02, Đức
Ngài rời Tịnh Xá Ngọc Quang đi với một vị sư già và một chú điệu qua Tịnh Xá Ngọc
Viên Vĩnh Long, rồi qua tiếp Cần Thơ. Nhưng khi đến Cái Vồn ( Bình Minh ) thì bị
một số người ngoại đạo bắt đi biệt tích. Bấy giờ Chư đệ tử mới biết rõ ra lời
nói của Ngài đi tu tịnh núi “ Lửa” Đó là lời cảm nhận mầu nhiệm của Tổ Sư. Rồi
từ ấy đến nay bóng Ngài bặt vô âm tín. Mấy chục năm dài trôi qua. Mấy chục mùa
xuân biền biệt. Mấy chục mai vàng rơi rụng chia xẻ nỗi niềm của hàng vạn con
tim hiếu kính thương nhớ Tổ Thầy:
Mỗi năm mỗi thắp
hương lòng
Cầu cho Sư Tổ thoát
vòng tai ương
Trở về bên mái Phật
đường
Chuyển pháp luân độ mười phương an lành
Trái oan là nghiệp
chúng sanh
Nạn tai là chuyện
phải đành mà thôi
Đành rồi, hóa giải
tức thời
Khổ đau sẽ hết, nụ
cười thêm xinh
MINH ĐĂNG QUANG bóng
an bình,
MINH ĐĂNG QUANG ngọn
đèn linh ta bà.
Hằng
năm, hàng môn đồ tứ chúng đệ tử luôn cầu nguyện và tâm niệm:
MINH ĐĂNG QUANG
bóng an bình,
MINH ĐĂNG QUANG ngọn
đèn linh ta bà.
Bởi từ lâu chúng ta đã thấu hiểu lời dạy
quý báu và sâu xa của Đức Thế Tôn: “ Dù người ta có giết thầy mình, mình cũng
không nên giết hại lại”. Và lời dạy thấm thía vi diệu nhất đối với chúng ta hôm
nay vẫn là “ Kẻ nào cột oan trái rằng – họ đã giết ta, đã đánh ta, đã thắng ta,
đã cướp của ta, oan trái của người ấy không bao giờ dứt. Người nào không cột
oan trái như thế, thì oan trái của người ấy sẽ dứt. Và từ cổ chí kim, oan trái
không bao giờ dứt được bởi sự cột oan trái. Oan trái chỉ dứt được bởi sự không
cột oan trái”.
Hiểu được giáo lý một cách vững chắc như vậy,
chúng ta sẽ nghe mình rất hạnh phúc khi được trả nghiệp. Huống hồ chúng ta còn
giác ngộ hơn khi Tổ Sư chúng ta xem đây là từng mức thử thách cần phải trả, cần
phải vượt qua để làm nên đạo Bồ Đề:
“ Quỳnh trong nước mắt, sen
trong lửa
Phút nhập thần sương bạc
khói lam
Chia nẻo khói sương về tới đích
Cả hai cùng hiện một hoa
đàm”.
Dấn thân vào cõi tử sanh, hòa điệu để được
trả nghiệp mà cũng là phương pháp chuyển hóa nghiệp, nhân đối diện hầu tạo hạnh
phúc an vui cho khắp vạn loài. Đây là tinh thần xả kỷ lợi tha của Chư Bồ Tát,
là tinh thần từ bi bất diệt của Đức Phật và giáo pháp Khất Sĩ Việt Nam.
Biết và nghĩ được như vậy, nên từ ngày Đức
Tôn Sư MINH ĐĂNG QUANG, vắng bóng đến nay đã trải qua năm chục năm dài rồi mà
chư đệ tử Tăng Ni và Nam Nữ Phật tử vẫn cùng nhau nối tiếp, một lòng mến đạo,
kính thương Tổ Thầy, y lời chỉ giáo, gắng công duy trì đường lối giáo lý Y –
Bát Khất Sĩ với sứ mạng thiêng liêng cao cả của Tổ Thầy để mở mang Phật Pháp hầu
dìu dắt bá tánh nhân sanh, đáp đền ơn Phật và Tổ Thầy trong muôn một.
V. KẾT
LUẬN
Kính bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa Chư liệt vị,
Nhờ tinh thần truyền thừa bất diệt và tinh
tấn dõng mãnh của Tổ Sư mà hiện thời hai miền Nam – Trung, cao nguyên và đồng bằng
đất Việt đều có Tịnh Xá Đạo Tràng xương minh chánh pháp. Chư Tăng Ni và Phật tử
ngày thêm tăng trưởng. Tuy nhiên chúng ta cũng biết không có một con đường hay
pháp môn nào đưa đến thành tựu và hưng thịnh mà không trải qua những thử thách
gạn lọc. Bởi trong thực tế của từng giai đoạn ngay trong thời điểm, thế hệ
chúng ta đang tu học – một số chư Tăng Ni Phật tử huynh đệ chúng ta đã phần nào
biểu hiện sự sa sút đời sống phạm hạnh,
thối chuyển, chán nản, có những trường hợp từ bỏ cuộc sống tu hành. Dù vậy, nếu
chúng ta can đảm nhìn thẳng vào sự thật, quán xét sự tương phản, biến hiện sanh
diệt của các pháp trong mỗi lúc, chuyển hóa nó trở lại thành bài học kinh nghiệm,
một phương pháp diệu dụng giúp chúng ta cảnh giác, nhiếp phục mọi trở ngại để
tiến đến đạo quả giải thoát an vui đúng như chư Phật, chư Tổ hằng chỉ giáo khai
thị : “ Phiền não tức Bồ Đề”.
Chư Tôn Trưởng Lão, Thượng Tọa, Đại Đức
Tăng Ni và hàng Phật tử chúng ta đã từng chịu đắng, nuốt cay vượt qua biết bao cam go, khó khăn thử
thách của trường đời mới giữ được thành quả cao quý trang nghiêm như ngày hôm
nay. Và rồi điều này lại càng nhắc nhở chúng ta hơn trên con đường dẫn đến tương lai cũng khó
khăn như con đường quá khứ
Vì thế chúng ta cần phải sáng suốt nhận định
chắc chắn rằng: “Có người đang lên đường,
có người đang chán nản, có người rồi sẽ chán nản”. Nhưng niềm tin sắt đá ở
chúng ta nhất định không di dịch, bởi cũng có “người đã lưng cao tự thuở giờ”.
Hào quang của chư Phật, chư Tổ mãi mãi muôn đời vẫn huy hoàng sáng rực soi nẻo
thánh thiện dẫn lối chúng ta đi.
Kính thưa chư vị,
Hằng năm, cứ ngày giờ này – chẳng những tại
đạo tràng Tịnh Xá nơi đây chúng ta đang trang nghiêm tưởng niệm ngày Đức Tôn Sư
vắng bóng mà hầu hết ở khắp các miền, các quốc độ gần xa, nơi nào có Đạo Tràng
Tịnh Xá là nơi đó có hàng trăm, hàng ngàn
môn đồ đang ngậm ngùi tưởng nhớ thâm ân cao cả của Tôn Sư.
Dù trải qua năm mươi lăm năm dài biền biệt
Đức Ngài đã xa vắng, nhưng tấm lòng của người đệ tử hiếu đạo trung kiên không
khi nào xa vắng. Và nguyện ghi vào tâm khảm đời đời tấm gương Bi – Trí – Dũng của
Tôn Sư để làm rạng rỡ tông môn Pháp phái.
Và một điều là dù mai kia, mốt nọ, đường
trần muôn lối, mỗi người chúng ta tu tập hành đạo một nơi, nhưng mong rằng chư
huynh đệ Tăng Ni Phật Tử, hàng môn đồ đệ tử của Đức Tôn Sư luôn luôn khắc dạ
ghi lòng:
“
Từ ngàn trước bao người dong ruổi
Nay chốn này đến buổi chúng ta
Con giòng hưởng lấy tài gia
Đoái nhìn sự nghiệp thương cha công trình.
Càng rộng lớn kinh dinh đồ sộ
Là người xưa lao khổ lại càng
Tìm ra được ánh đạo vàng
Nhọc
nhằn một kẻ, vẻ vang muôn người
Ôi thật đáng cho đời kính ngưỡng
Công đức Ngài vô lượng vô biên
Hởi
chư Phật tử hữu duyên
Nhớ
ơn Thầy Tổ cần chuyên tu hành”.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ban
Thư Ký Hệ
Phái Khất Sĩ
Nguồn
tin: ĐẠO PHẬT KHẤT Sĩ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét