Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

[TIỂU SỬ] Cố Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên



Cố Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh năm 1923 tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Vận đã qua đời, thân mẫu là bà Lê Thị Thảo đã xuất gia, thọ Tỳ Kheo Ni trong Hệ Phái Khất Sĩ, pháp danh Thiện Liên, viên tịch ngày 3 tháng 4 năm Kỷ Mão tại Bến Tre, hưởng thọ 89 tuổi.
Tiểu Sử Cố Ni Trưởng Huỳnh Liên
NI TRƯỞNG thượng HUỲNH hạ LIÊN
KHAI SÁNG TINH XÁ NGỌC PHƯƠNG-TRUNG TÂM NI GIỚI HỆ PHÁI KHẤT SĨ VIỆT NAM
                           
    Năm 1943, khi được 20 tuổi, Cố Ni Trưởng đã quy y Phật Đường Minh Sư, tu học theo hạnh cư sĩ tại gia.
 Năm 1946, khi Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang, Tổ khai sơn Hệ Phái Khất Sĩ tại Việt Nam, được các cư sĩ thỉnh về hoằng pháp tại chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, thì Cố Ni Trưởng đã hội đủ phước duyên, cùng 2 bạn đồng hành là Ni Sư Nhị và Ni Sư Tam được Đức Tổ Sư chứng minh, làm lễ xuất gia vào ngày mùng 1 tháng 4 năm Đinh Hợi (1947) tại chùa Linh Bửu, thọ ký pháp danh là Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên mà Ni Trưởng là Trưởng tử Ni của Đức Tổ Sư. Lần lược cả 3 vị đều được Đức Tổ Sư chứng minh, truyền thọ giới pháp Y Bát Khất Sĩ, làm Tỳ Kheo Ni, nối gót Tổ Thầy tu học, nếp sống vân du,pháttriển mở mang Giáo Pháp.
 Từ đó Cố Ni Trưởng được trực tiếp học Đạo, nghe Pháp với Đức Tổ Sư qua những bài chân lý thật sống, bằng những thử thách gay go trên đường hành Đạo, để rèn luyện ý chí, giồi trau phẩm hạnh hầu khai thị pháp môn, nối truyền huệ mạng truyền lưu giáo Pháp Phật Đà.
 Năm 1954, Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang thọ nạn và vắng bóng. Cố Ni Trưởng kế tục sự nghiệp Tổ Thầy, trực tiếp lãnh đạo hàng Ni chúng Khất Sĩ trong phận sự Ni Trưởng Ni.
 Từ năm 1947 đế
n năm 1948, tròn 40 năm tu học, 40 năm giông tố bão bùng, gánh nặng hoằng vai, mẹ ngàn con đa đoan Phật sự, thế mà từng sát na sống dạt dào ý nghĩa, từng sát na vận chuyển trí tâm, Cố Ni Trưởng đã léo lái Giáo Đoàn Ni Giới Khất Sĩ cùng con thuyền Giáo Hội Tăng Già truyền thừa Phật Pháp rộng sâu trong quần chúng nhân dân suốt hai miền Nam Trung nước Việt. Nhờ bi nguỵên bao la, Đức độ từ hòa, sức tinh tấn không mòn mỏi, Cố Ni Trưởng đã hội nhập vào lòng người, thành lập 100 ngôi Tịnh Xá, Đạo tràng, thu nhập tiếp độ hàng ngàn chúng Ni, hàng vạn tín đồ.
 Cố Ni Trưởng là người có thiên phú về thơ ca văn học, cho nên đạo nghiệp Pháp bảo thơ văn của Cố Ni Trưởng cũng vô cùng phong phú. Những bài kinh tụng thường nhật như Di Đà, Hồng Danh, Phổ Môn, báo Hiếu, Bát Nhã, Tâm Kinh, Xưng Tụng Tam bảo, Kinh Vô Ngã Tướng, Kinh Pháp Cú, Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương..v.v.. bằng chữ Hán và Pàli đều được Ngài Việt dịch theo lối văn vần cho hàng môn đồ dễ hiểu, dễ đọc tụng, dễ thâm nhập diệu nghĩa, dễ học thuộc lòng và phổ biến rộng sâu.
 Ngoài ra, Cố Ni Trưởng sáng tác, lưu lại cho đời hơn 3 ngàn bài thơ, bài kệ, đủ thể loại, chưa in, hàng ngàn bản văn xuôi chưa in, ca ngợi cái hay, cái đẹp của con người và cuộc đời, giáo dưỡng, khích lệ, sách tấn Chúng Ni và Phật Tử nỗ lực tiến tu, triển khai đạo nghiệp, đồng thời cũng đấu tranh cho chân lý, cho lẽ thiện, cho nền hòa bình và độc lập dân tộc, chống bất công trong cuộc sống, giành quyền bình đẳng nhân sinh, đặc biệt là bình đẳng nam nữ.
 Một đặc điểm nữa mà chúng ta cần lưu ý là tâm từ và tình thương của Cố Ni Trưởng thật rất rộng sâu khôn tả. Bên cạnh việc xây dựng Tịnh Xá Đạo Tràng, tiếp độ chúng sanh để thiết thực hàng gắn vết thương chiến tranh, Người chủ trương xây cất nhiều Cô Nhi Viện để nuôi dưỡng những đứa trẻ bất hạnh trong đời, nạn nhân đầu xanh vô tội, hậu quả chiến tranh. Nhìn những đứa trẻ mồ côi lớn lên mang nhiuề dòng máu, nhiều màu da sắc thái dân tộc, chúng ta càng thấy rõ thế nào là tình thương bao la, là tâm từ không biên gới của Cố Ni Trưởng.
 Từ năm 1960 đến năm 1975, miền Nam bước vào thời kỳ của khúc quanh lịch sử. Noi gương hạnh đức Bồ Tát Phổ Hiền, nối chí các Thiền Sư Vạn Hạnh và Khuông Việt, Cố Ni Trưởng chủ trương đem Đạo vào đời, nhập trần bất nhiễm, tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên, tấm lòng Bồ Tát đau nỗi đau chung của dân tộc ! Trước cảnh chết chóc vô nghĩa của nhân dân, trong đó có tín đồ Phật giáo chịu quá nhiều cảnh áp bức bất công, dẫy đầy đau khổ, xã hội tinh thnầ ngày càng xuống dốc . . . buộc lòng Cố Ni Trưởng không thể bàng quang tọa thị, an trú thiền môn. Người đã tích cực vận động và nhiệt tâm tham gia vào các phong trào xuống đường đấu tranh đòi quyền sống, đấu tranh cho lý tưởng tự do, cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước và trường tồn Đạo Pháp. Ni Trưởng đã vào gông xiềng để bẻ gãy xiềng gông, xông ngục tù để phá tan tù ngục. từ đó, chúng ta thầy nơi nào có đấu tranh cho công bằng xã hội, cho lý tưởng tự do, cho hòa bình độc lập, thống nhất đất nước là nơi đó có " đạo quân đầu tròn " của Cố Ni Trưởng hiện diện cho đến ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
 Sau 30 tháng 4 năm 1975, Cố Ni Trưởng lại tiếp tục góp phần vào các phong trào xây dựng đất nước trong thời bình. Với chủ trương tích cực nhập thế, Người đặc biệt hướng về con đường từ thiện xã hội của giới Ni lưu vô cùng thiết thực : Các Quân y viện, Bệnh viện, Viện mồ côi, Nhà dưỡng lão, các Trại tâm thần, Trại phong, những gia đình cô đơn, khốn khó, những vùng bị bão lụt, thiên tai, nơi nào cũng có bóng áo vàng của Cố Ni Trưởng và chư Ni, Phật tử thường xuyên đến viếng thăm, ủy lạo, nhất là vào những ngày lễ lớn, và lễ truyền thống của Phật Giáo.
 Những tháng cuối cuộc đời, thân tứ đại của Cố Ni Trưởng phải vào nằm bệnh viện. Chính những ngày cuối tháng này, tấm lòng yêu đời, thương người của Cố Ni Trưởng như dâng cao bát ngát, ngào ngạt ngàn phương. Bao nhiêu tịnh tài do chư Ni và Phật tử cúng dâng để Ni Trưởng uống thuốc đều  được dành để sắm một ti vi màu thân tặng Quân y viện 175, đem nguồn vui an ủi bệnh nhên bất hạnh. Ôi ! Công đức Cố Ni Trưởng thậm thâm vi diệu biết bao! Dù lúc bệnh duyên soi thế đế, người cũng không quên tìm cách đem niềm vui đến với sanh loài, nhất là những nhân sanh đang tật bệnh, khốn nghèo, khổ đau bức bách.
 Đặc biệt hơn nữa, trong sự nghiệp giáo dưỡng chúng Ni, Ni TRưởng chủ trương cho Ni Chúng học thêm văn hóa và Phật pháp thâm sâu. Ôm hoài bão đào tạo Tăng tài để " kế vãng khai lai ", Cố Ni Trưởng đã nhiệt tâm đóng góp tài vật, cổ động chư Ni và tín đồ ủng hộ thường xuyên cho việc thành lập Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. HCM; khuyến khích, sách tấn, tạo điều kiện cho Ni chúng biết trưởng dưỡng thiện căn, tiêu trừ nghiệp chướng, sống lợi tha, xả hỷ, tu tập tinh thần cho hệu giác triển khai, hầu đủ đức tài để hoằng dương Chánh Pháp.
 Ước mơ đó của Cố Ni Trưởng, ngày nay đã trở thành hiện thực : nhiều Ni Cô đủ duyên theo học hoặc tốt nghiệp trong các trường Đại Học, Cao Cấp, TRung Đẳng Phật Giáo và du học. Hầu hết Chư Ni hiếu học, ham tu, noi gương, dõi nguyện, thắp sáng bổn hoài của Người, nỗ lực tinh thần tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ để đền đáp tứ ân.
 Những năm cuối báo thân, sức khỏe kém dần, Ni Trưởng vẫn bền hạnh nguyện kiên trì giáo dưỡng, vàng đeo ngọc ném, viên giáo khai thông, trụ chân tâm nhiếp hóa chúng sanh quần, giới đức ngát thương, thiền na tỏa rạng.
 Vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 16 tháng 4 năm 1987 (tức 19 tháng 3 năm Đinh Mão) Ni Trưởng lặng lẽ an nhiên thu thần thị tịch, nhẹ bước nhàn du, Cao Đăng Phật Quốc, hưởng thọ 65 tuổi, hạ lạp 41 mùa mưa. Ni Trưởng ra đi, để lại trong lòng hàng môn đồ đệ tử và thân hữu gần xa biết bao niềm kính thương luyến tiếc ! Ôi! Tấm lòng vì Đạo vì đời của Cố Ni Trưởng bát ngát như bể khơi, như hư không bất tận! Về công hạnh đạo nghiệp của Người như sau:
 * Từ năm 1947 đến năm 1954 Trưởng tử Ni trong hàng đệ tử của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.
 * Từ năm 1954 đến năm 1987 Ni Trưởng Giáo Hội Ni Giới Khất Sĩ Việt Nam.
 * Từ năm 1976 đến năm 1987 Phó Chủ Tịch Ban liên lạc Phật Giáo yêu nước TP. HCM.
 * Từ năm 1980 đến năm 1981 Ủy viên Ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam.
 * Từ năm 1981 đến 1987 Ủy viên kiểm soát Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
 - Công đức thế pháp của Cố Ni Trưởng trong xã hội và dân tộc như sau :
 * Từ năm 1960 đến năm 1975 hoặc âm thầm hoặc công khai tham gia đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước.
 * Từ năm 1975 thành viên Đoàn Đại Biểu miền Nam Hiệp Thương Thống Nhất Tổ Quốc Việt Nam.
 * Từ năm 1976 đến năm 1980 Đại Biểu Quốc Hội Khóa VI. Nhiều nhiệm kỳ là Phó Chủ Tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP, Ủy viên ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của TP. HCM. Nhiều lần đi dự Đại Hội Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới.

                                                                                                                                                                                                                                                Tịnh Xá Ngọc Phương năm 1994
                                                                                                                                                                                                                                                                Thích Nữ Tố Liên Phụng soạn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét